Đảng Cộng sản Việt Nam Quang Vinh muôn năm                  Tuyệt đối trung thành, đoàn kết, trung thực, liêm khiết, kỷ cương và tận tụy                  Đảng Cộng sản Việt Nam Quang Vinh muôn năm                 Tuyệt đối trung thành, đoàn kết, trung thực, liêm khiết, kỷ cương và tận tụy                  Đảng Cộng sản Việt Nam Quang Vinh muôn năm                  Tuyệt đối trung thành, đoàn kết, trung thực, liêm khiết, kỷ cương và tận tụy

Nghiên cứu, trao đổi

Một số vấn đề về kiểm soát quyền lực trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng

05-12-2024 08:22

Quyền lực được hiểu cơ bản là quá trình tác động, chi phối của chủ thể nắm quyền lực lên khách thể, buộc đối tượng phải phục tùng trong định đoạt mọi công việc quan trọng...

      Quyền lực được hiểu cơ bản là quá trình tác động, chi phối của chủ thể nắm quyền lực lên khách thể, buộc đối tượng phải phục tùng trong định đoạt mọi công việc quan trọng. Quyền lực là phạm trù có tính phổ biến, khách quan, không có lĩnh vực hay quan hệ nào nằm ngoài sự tác động của quyền lực; mỗi quyền lực chỉ có hiệu lực tác động trong quan hệ nhất định (không có quyền lực vạn năng, tuyệt đối); quyền lực là quan hệ mang tính thứ bậc, sự phân định vị thế giữa chủ thể nắm giữ quyền lực với khách thể chịu tác động của quyền lực là quan hệ phục tùng, tuân thủ. Quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng và tăng cường vai trò, sự ảnh hưởng; tha hóa quyền lực nhà nước là xu hướng khó tránh khỏi, nếu thiếu thiết chế, cơ chế kiểm soát hiệu lực, hiệu quả. Do vậy, để bảo đảm các quyền tự do cơ bản của nhân dân, ngăn ngừa hành vi tha hóa quyền lực của chủ thể nắm giữ quyền lực thì phải thiết lập hệ thống pháp luật và pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực bằng quyền lực.

      Kiểm soát quyền lực là việc chủ thể quyền lực sử dụng công cụ, phương tiện, biện pháp để tác động vào mối quan hệ giữa người áp đặt ý chí (người mang quyền lực) và người bị áp đặt ý chí (người phục tùng quyền lực) nhằm hạn chế xu hướng tha hóa quyền lực bằng cách phân công, phối hợp giữa các cơ quan của Đảng và Nhà nước trong việc lãnh đạo và thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; là kiểm soát con người được giao quyền lực và việc thực thi quyền lực được giao. Kiểm soát quyền lực của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong công tác cán bộ được hiểu là cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp có thẩm quyền thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác cán bộ theo phân cấp quản lý để xem xét, đánh giá, kết luận rõ ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

1. Nội dung cơ bản về kiểm soát quyền lực của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền thông qua phương thức kiểm tra, giám sát của Đảng.

      Công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí được Đảng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai khá toàn diện, quyết liệt với nhiều giải pháp đồng bộ; để xây dựng, hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cả hệ thống chính trị trong đó có việc nghiên cứu, ban hành mới cũng như sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định của Đảng và các quy định của pháp luật Nhà nước; Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều quy định về kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, khá đồng bộ, toàn diện, tạo cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ  kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên, góp phần kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; các quy định của Đảng về vấn đề này được sửa đổi, bổ sung, thể hiện rõ quyết tâm chấn chỉnh kỷ luật Đảng "không có ngoại lệ, không có vùng cấm". Đại hội XIII của Đảng đã đề ra giải pháp đột phá: "Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực"; Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 131-QĐ/TW về “kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán”, gồm 04 chương, 11 điều (Quy định 131). Quy định 131 ra đời đã được triển khai trong hoạt động của các cấp ủy, tổ chức Đảng và quá trình công tác của mỗi cán bộ, đảng viên. Đối tượng áp dụng Quy định này là tổ chức (gồm cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị), cá nhân có thẩm quyền trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và hoạt động thanh tra, kiểm toán; tổ chức, cá nhân được kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, bị thi hành kỷ luật đảng.

      Quy định nêu rõ, kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán là việc sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy chế làm việc, quy định, quy trình nghiệp vụ để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các vi phạm, nhất là hành vi lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

      Tham nhũng trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán là việc người có thẩm quyền lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác.

      Tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và hoạt động thanh tra, kiểm toán là hành vi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy chế, quy định, quy trình nghiệp vụ dẫn đến việc làm không đúng với quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán.

      Tổ chức, cá nhân lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và hoạt động thanh tra, kiểm toán là cấp uỷ, tổ chức đảng; cơ quan và lãnh đạo các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; đoàn kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán; lãnh đạo cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành; cán bộ, đảng viên được giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán. 

      Quy định 131 đã đề ra 05 nguyên tắc (Điều 3) kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán đó là: (1) bảo đảm lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, chặt chẽ, toàn diện của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; kiểm soát các cơ quan nhà nước trong hoạt động thanh tra, kiểm toán; giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị- xã hội và nhân dân. (2) Có cơ chế để phòng ngừa và bảo đảm mọi quyền lực được kiểm soát chặt chẽ, quyền hạn phải gắn với trách nhiệm. Công khai, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và hoạt động thanh tra, kiểm toán. (3) Đảm bảo tính độc lập, khách quan, thực hiện đầy đủ, chấp hành nghiêm quy chế làm việc, quy định, quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán; xây dựng thực hiện văn hóa liêm chính, không tham nhũng, tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ. (4) Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hành, tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và hoạt động thanh tra, kiểm toán. (5) Tuân thủ chủ trương, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

      Quy định đã nêu cụ thể 22 hành vi (Điều 4) tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán và những trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, thành viên cấp ủy, tổ chức đảng; trách nhiệm của lãnh đạo, người đứng đầu cơ quan, tổ chức kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và cá nhân có liên quan và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khác, cụ thể:

- Hối lộ, nhận hối lộ, môi giới hối lộ, mua chuộc người có trách nhiệm, chức vụ, quyền hạn hoặc người có liên quan nhằm giảm nhẹ, trốn tránh trách nhiệm cho đối tượng vi phạm.

- Cung cấp, tiết lộ thông tin, tài liệu, hồ sơ của đối tượng kiểm tra cho tổ chức và cá nhân không có thẩm quyền, trách nhiệm, nhất là thông tin, tài liệu, hồ sơ đang trong quá trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng hoặc thanh tra, kiểm toán.

- Nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất, tham gia hoạt động vui chơi, giải trí của đối tượng kiểm tra hoặc người có liên quan đến đối tượng kiểm tra.

- Lợi dụng các mối quan hệ thân quen hoặc sử dụng lợi thế, vị trí công tác, uy tín của mình, người khác để tác động, tranh thủ, gây sức ép với đối tượng kiểm tra hoặc tổ chức, cá nhân có liên quan nhằm trục lợi hoặc động cơ cá nhân khác.

- Lợi dụng việc nắm được thông tin nội bộ hoặc thông tin bất lợi của tổ chức, cá nhân để đặt điều kiện, gây sức ép đối với đối tượng kiểm tra, người có thẩm quyền, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, thanh tra, kiểm toán nhằm trục lợi hoặc động cơ cá nhân khác.

- Để người có quan hệ gia đình lợi dụng ảnh hưởng chức vụ, quyền hạn của mình nhằm thao túng, can thiệp vào việc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, thanh tra, kiểm toán.

- Đưa ý đồ cá nhân, đề ra tiêu chí, điều kiện, nhận xét, đánh giá mang tính áp đặt, không đúng bản chất, không đúng sự thật để có lợi hoặc gây bất lợi cho đối tượng kiểm tra.

- Xác nhận, nhận xét, đánh giá, kết luận và kiến nghị không đúng sự thật hoặc làm giả, làm sai lệch nội dung hồ sơ, bản chất vụ việc, vi phạm của đối tượng kiểm tra.

- Thoả thuận, đặt điều kiện với đối tượng kiểm tra hoặc người có liên quan đến đối tượng; thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định để làm thay đổi, sai lệch kết quả, kết luận kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán.

- Không kiến nghị, đề xuất chuyển đến cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm; không kiến nghị hoặc chỉ đạo, xử lý thu hồi vật chất, xử lý kỷ luật theo thẩm quyền đối với các vi phạm khi tiến hành kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán.

- Chỉ đạo hoặc cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, chưa được phép công bố hoặc không thực hiện đúng kết luận, kiến nghị về kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, thanh tra, kiểm toán.

- Gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi không đúng quy định với đối tượng kiểm tra; sử dụng các tài liệu thẩm tra, xác minh không đúng mục đích.

- Bao che, tiếp tay, trì hoãn hoặc không kết luận, không xử lý hoặc kết luận, xử lý không đúng nội dung, tính chất, mức độ vi phạm hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định đối với tổ chức, cá nhân vi phạm.

- Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, thanh tra, kiểm toán vượt thẩm quyền; không đúng quy trình nghiệp vụ, phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian theo quy định. Cản trở, can thiệp trái quy định vào việc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, thanh tra, kiểm toán.

- Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, sách nhiễu, gây khó khăn, có thái độ áp đặt, thiếu tôn trọng, không đúng quy định của ngành, can thiệp trái quy định vào hoạt động của đối tượng kiểm tra.

- Không xử lý hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định khi nhận được thông tin, đơn, thư phản ánh, tố cáo đối tượng kiểm tra.

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc dùng uy tín, ảnh hưởng của bản thân và gia đình để gợi ý, tác động, gây áp lực đối với người có thẩm quyền quyết định hoặc tham mưu về các kết luận kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, thanh tra, kiểm toán không đúng bản chất sự việc.

- Tác động đến người có thẩm quyền nhằm giúp cho đối tượng kiểm tra có được kết quả, quyền lợi không chính đáng ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân.

- Trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ đối tượng kiểm tra thực hiện các hành vi nhằm trốn tránh, giảm nhẹ trách nhiệm.

- Không kịp thời thay đổi thành viên đoàn kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, thanh tra, kiểm toán khi có căn cứ xác định thành viên không vô tư, khách quan trong công tác; không kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của đoàn.

- Không kịp thời kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán đối với những tổ chức, cơ quan, đơn vị và cá nhân có dấu hiệu vi phạm, đơn, thư phản ánh, tố cáo đã được xác định là có cơ sở.

- Các hành vi tham nhũng, tiêu cực khác theo quy định của Đảng và pháp luật.

      Việc xử lý hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyện hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực, Điều 8, Quy định 131 nêu rõ: Kịp thời xem xét, thi hành kỷ luật nghiêm minh theo quy định của Đảng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán.

Trường hợp vi phạm chưa đến mức xử lý kỷ luật thì phải tự kiểm điểm, có biện pháp khắc phục vi phạm, khuyết điểm và cam kết không tái phạm. Đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức (kể cả người đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu) vi phạm đều bị xử lý theo quy định hiện hành.

Việc xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng, tiêu cực được nêu tại Điều 9 của Quy định 131 đối với tổ chức và đối với lãnh đạo cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị.

2. Kết quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn

      Trong thời gian qua, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lạng Sơn đã tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của đảng; tăng cường lãnh đạo cấp ủy, UBKT các cấp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên, nhất là tổ chức đảng, đảng viên liên quan đến các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tiêu cực tỉnh theo dõi, chỉ đạo… Kết quả 9 tháng năm 2024,

- Cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy và chi bộ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 06 tổ chức đảng và 15 đảng viên, trong đó có 11 cấp ủy viên, kết luận: 02 tổ chức đảng và 10 đảng viên vi phạm; phải xử lý kỷ luật và đã xử lý kỷ luật 06 đảng viên. Trong đó Ban Thường vụ Tỉnh ủy kiểm tra 02 tổ chức đảng, kết luận: 01 tổ chức đảng có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật đồng thời qua kiểm tra kết luận 03 tổ chức đảng và 14 đảng viên liên quan có vi phạm đến mức phải xem xét thi hành kỷ luật, đang thực hiện theo quy trình đối với 01 tổ chức đảng. Phối hợp với cơ quan điều tra làm rõ vi phạm, xem xét thi hành kỷ luật 03 đảng viên vi phạm.

      UBKT các cấp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 42 tổ chức đảng và 122 đảng viên, trong đó có 57 cấp ủy viên các cấp trong đó: UBKT Tỉnh ủy đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 06 tổ chức đảng và 30 đảng viên. Kết luận 06 tổ chức đảng và 30 đảng viên vi phạm, trong đó có 04 đảng viên có vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật và đã thi hành kỷ luật; UBKT cấp huyện và tương đương, UBKT cấp cơ sở đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 36 tổ chức đảng và 92 đảng viên, kết luận: 22 tổ chức đảng và 66 đảng viên có vi phạm, phải thi hành kỷ luật 02 tổ chức đảng và 27 đảng viên, đã thi hành kỷ luật 01 tổ chức đảng và 26 đảng viên.

- Ban Thường vụ Tỉnh ủy thi hành kỷ luật 01 tổ chức đảng và 11 đảng viên; văn bản đề nghị thi hành kỷ luật về hành chính; tham mưu văn bản báo cáo đề nghị UBKT Trung ương đình chỉ sinh hoạt Đảng và đề nghị thi hành kỷ luật đối đối với 01 trường hợp. Cấp ủy và chi bộ thi hành kỷ luật 07 tổ chức đảng với hình thức Khiển trách 01; Cảnh cáo 06.… thi hành kỷ luật 124 đảng viên bằng các hình thức: Khiển trách 91; Cảnh cáo 11; Cách chức 04; Khai trừ: 18.

      UBKT Tỉnh ủy thi hành kỷ luật 01 tổ chức đảng bằng hình thức Khiển trách và 04 đảng viên bằng hình thức: Khiển trách 02; cảnh cáo 01; khai trừ 01. Đình chỉ sinh hoạt đảng đối với 03 trường hợp. UBKT cấp huyện và tương đương, UBKT cấp cơ sở thi hành kỷ luật 03 tổ chức đảng bằng hình thức và 102 đảng viên bằng các hình thức: Khiển trách 37; Cảnh cáo 15; Cách chức 04; Khai trừ 46 đảng viên. Quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng 58 đảng viên; xử lý pháp luật 35 trường hợp; xử lý hành chính 13 trường hợp.

      Qua kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, cho thấy, nội dung vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên chủ yếu là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, dẫn đến xảy ra các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai, tài chính, tài sản, thực hiện dự án đầu tư; và vi phạm trách nhiệm nêu gương … Có trường hợp là cán bộ lãnh đạo thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý bị kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng; tính chất, mức độ, hậu quả của các hành vi vi phạm trong một số vụ việc rất nghiêm trọng, có những vụ việc gây thiệt hại rất lớn về tiền, tài sản của Nhà nước; nhiều vi phạm diễn ra trong một thời gian dài, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành nhưng không được phát hiện, kiểm tra kịp thời, dẫn đến khi xử lý để lại hậu quả rất nặng nề, khó khắc phục.

      Đạt được những kết quả nêu trên là do UBKT Tỉnh ủy đã chủ động, tích cực tham mưu cho Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng; thường xuyên quán triệt, triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, văn bản của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát; xây dựng và tổ chức thực hiện hoàn thành Chương trình giám sát của Ban Chấp hành, Chương trình kiểm tra, giám sát của Ban Thường vụ Tỉnh ủy năm 2023, tổ chức thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát của cấp mình. Tăng cường lãnh đạo cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên, nhất là tổ chức đảng, đảng viên liên quan đến các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh theo dõi, chỉ đạo. Chỉ đạo, hướng dẫn ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện tốt chức năng tham mưu, giúp cấp ủy tổ chức thực hiện toàn diện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thực hiện tốt các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định; công tác giám sát được chú trọng và có nhiều đổi mới; việc giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại được kịp thời, đúng quy định; công tác kiểm tra tài chính đảng kịp thời chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm cần chấn chỉnh; việc thi hành kỷ luật cơ bản đảm bảo chặt chẽ, đúng quy trình, quy định, dân chủ, khách quan. Chất lượng, hiệu quả các cuộc kiểm tra, giám sát ngày càng được nâng cao; nội dung kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, giám sát mở rộng, việc xử lý kỷ luật đảm bảo nghiêm minh, kịp thời. Công tác xây dựng ngành kiểm tra tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện, đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra đảng thường xuyên được kiện toàn đủ về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng; công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ UBKT được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình, đảm bảo về số lượng, chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu của công tác kiểm tra, giám sát trong tình hình mới. Cách thức tiến hành của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, UBKT Tỉnh ủy, các cấp ủy, UBKT các cấp trong xem xét các vụ việc và xử lý trách nhiệm những tập thể, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm trong thời gian vừa qua được dư luận và cán bộ, đảng viên đánh giá cao. Việc công khai thông tin thể hiện sự cương quyết, trách nhiệm và thẳng thắn trong xử lý cán bộ sai phạm, cho dù đó là cán bộ ở cấp nào, đương chức hay nghỉ hưu.

      Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng thời gian qua còn có khó khăn, hạn chế như: Việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời... Công tác giám sát ở các cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp... còn vi phạm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Công tác tự kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị để phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh xử lý tiêu cực, sai phạm liên quan đến tham nhũng, kinh tế còn hạn chế.

      Một số cấp ủy chưa thực sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát; việc nắm thông tin, tình hình đề xuất, chỉ đạo kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối của một số cấp ủy còn hạn chế; việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm liên quan đến các vụ án, vụ việc có việc còn chậm, chưa đảm bảo theo tiến độ chỉ đạo; chỉ đạo thực hiện kiểm tra xác minh tài sản, thu nhập theo Quyết định số 56-QĐ/TW, ngày 08/02/2022 của Bộ Chính trị có nơi còn chậm. (2) Một số đồng chí cấp ủy viên và cán bộ kiểm tra các cấp thực hiện nhiệm vụ theo địa bàn, lĩnh vực phụ trách đôi khi chưa sâu sát, chưa kịp thời nắm bắt thông tin dẫn đến việc tham mưu, đề xuất cho cấp ủy có việc còn hạn chế. (3) Việc thực hiện quy chế phối hợp giữa UBKT các cấp với các cơ quan trong khối nội chính (cơ quan thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử) có việc còn chưa được chặt chẽ, kịp thời.

* Nguyên nhân, khó khăn: một số cấp ủy chưa thực sự chưa thật sự quan tâm, chú trọng đối với công tác kiểm tra, giám sát; công tác tham mưu, đề xuất thực hiện kiểm tra, giám sát ở một số ủy ban kiểm tra các cấp chưa chủ động, kịp thời; trong bối cảnh tình hình Ngành kiểm tra được giao thực hiện nhiều nhiệm vụ như hiện nay nhưng số lượng biên chế cán bộ kiểm tra chưa thực sự đảm bảo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; cấp cơ sở chưa có cán bộ chuyên trách làm công tác kiểm tra; năng lực, kinh nghiệm cán bộ, công chức làm công tác trong ngành kiểm tra không đồng đều.

      Việc kiểm soát quyền lực của cấp ủy và UBKT các cấp nhằm phòng ngừa sự lợi dụng quyền hạn trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát còn có khó khăn. Trên thực tế, công tác kiểm tra, giám sát có nhiều cơ hội có thể lợi dụng quyền hạn trong thực thi nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, tuy nhiên rất khó phát hiện như nhận hối lộ, nhận quà biếu; tự ý tiếp xúc với đối tượng kiểm tra, giám sát; sử dụng các tài liệu thẩm tra, xác minh, kết quả kiểm tra, giám sát để trục lợi; bao che, “bỏ qua” hành vi vi phạm của đối tượng vi phạm; làm sai lệch kết quả kiểm tra, giám sát gây bất lợi hoặc có lợi cho đối tượng kiểm tra, giám sát...; dùng quyền lực tác động không đúng, “ưu ái” với một số đối tượng thân quen hoặc lợi dụng vị trí công tác để thao túng, thâu tóm quyền lực của tập thể, của người khác trái quy định.

3- Một số giải pháp thực hiện tốt việc kiểm soát quyền lực trong công tác kiểm tra, giám sát

      Để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong Đảng; vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và UBKT các cấp trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong thời gian tới cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

      Một là, Cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra và cơ quan thanh tra các cấp phải thường xuyên tổ chức tuyên truyền, quán triệt, phổ biến sâu nội dung Quy định số 131-QĐ/TW với các hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp, nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu về vị trí, vai trò, tác dụng và tầm quan trọng của kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh, Thanh tra tỉnh, các huyện ủy, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao xây dựng kế hoạch cụ thể hóa thực hiện Quy định số 131-QĐ/TW nghiêm túc, hiệu quả.

      Hai là, Tham mưu, rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới văn bản, quy định, hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, bảo đảm khoa học, đồng bộ, thống nhất, khả thi, trong đó chú trọng đổi mới, cải tiến các phương pháp, quy trình kiểm tra, giám sát để chủ động phát hiện từ sớm, ngăn chặn từ gốc vi phạm, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo hướng tăng cường trách nhiệm, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Tiếp tục quan tâm đến công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung phát triển quan điểm, nguyên tắc, phương pháp về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, nhất là đề xuất, giải quyết những vấn đề còn bất cập, vướng mắc trong công tác kiểm tra, giám sát.

 

      Ba là, Tham mưu tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng gắn với trách nhiệm người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nội bộ có biểu hiện mất đoàn kết, những nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm; những nơi tham mưu, xây dựng thể chế, chính sách, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực, như kinh tế - tài chính, năng lượng, y tế, giáo dục, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, huy động, sử dụng các nguồn vốn, thực hiện các dự án đầu tư và công tác cán bộ.

      Bốn là, Thực hiện công khai trên công luận những vụ việc tha hoá quyền lực, nhất là lạm quyền, lộng quyền, lạm dụng quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” lớn; công khai các hành vị tha hoá quyền lực trong việc chạy chức, chạy quyền, trong việc bổ nhiệm người thân, người nhà không đúng tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục, thẩm quyền hoặc nâng đỡ “không trong sáng” cán bộ dưới quyền… để cán bộ, đảng viên, Nhân dân thấy rõ tính chất nguy hại của tha hoá quyền lực để lại nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm trọng… Qua kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm và công khai kết quả xử lý trên các phương tiện thông tin đại chúng.

      Năm là, Tham mưu tăng cường kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giám sát, chú ý giám sát đều các khu vực, lĩnh vực, địa phương, coi đây là việc làm thường xuyên để phát hiện, nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa từ xa, giải quyết từ sớm các khuyết điểm, vi phạm với mục đích “trị bệnh cứu người”, không để từ khuyết điểm kéo dài trở thành vi phạm, từ vi phạm nhỏ trở thành vi phạm lớn, vi phạm của một người thành vi phạm của nhiều người, giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm.

      Sáu là, Tham mưu phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử của Nhà nước; đưa công tác phòng, chống tham nhũng thành một trong những nội dung công tác trọng tâm của UBKT các cấp trong nhiệm kỳ này. Tập trung kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo. Trong quá trình kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì chuyển ngay hồ sơ vụ việc đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để thụ lý, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật, không chờ đến khi kết thúc quá trình kiểm tra, giám sát mới chuyển; kỷ luật của Đảng phải được thực hiện trước, là tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính của Nhà nước, của đoàn thể và xử lý hình sự.

      Ủy ban kiểm tra và cơ quan thanh tra các cấp chủ động rà soát và không bố trí cán bộ, công chức theo dõi địa bàn, lĩnh vực hoặc tham gia, chỉ đạo các đoàn kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và thanh tra đối với những người có quan hệ gia đình hoặc có lợi ích liên quan đến đối tượng kiểm tra, thanh tra, giám sát, đồng thời phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, truy tố, xét xử để kịp thời điều tra, xét xử các vụ việc, vụ án liên quan tham nhũng, tiêu cực đúng theo quy định.

      Bảy là, Thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy UBKT và cơ quan UBKT; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đề xuất cấp có thẩm quyền tăng cường luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra và luân chuyển cán bộ kiểm tra sang công tác ở các cấp, các ngành khác theo Thông báo Kết luận số 312-TB/TW, ngày 09/3/2010 của Ban Bí thư “Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển lãnh đạo UBKT các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ kiểm tra”. Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của UBKT cấp trên đối với UBKT cấp dưới trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, đặc biệt là các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, lĩnh vực nhạy cảm, quan trọng và xử lý vi phạm về tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Tăng cường chỉ đạo UBKT cấp dưới, khi cần thiết thì tiến hành kiểm tra cách cấp để thúc đẩy và tạo chuyển biến mang tính toàn diện, rõ rệt hơn nữa trong toàn ngành kiểm tra đảng. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra, trong đó chú trọng trang bị phương tiện, đẩy mạnh ứng dựng công nghệ thông tin trong hoạt động của UBKT các cấp, đặc biệt là xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới, góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc và cải cách hành chính trong Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.

      Tám là, Thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy UBKT và cơ quan UBKT; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới; cần lựa chọn cán bộ, công chức kiểm tra của Đảng có bản lĩnh vững vàng, trung thực, có phương pháp, kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn về xử lý các vụ việc, chịu khó nghiên cứu, tìm tòi; khách quan, công tâm, trong sạch, phải vì lợi ích của tập thể, của sự nghiệp cách mạng mà nói đúng sự thật, không thiên vị, định kiến, không bị chi phối trước bất cứ sức ép nào đồng thời cần có chính sách hỗ trợ đặc thù nhằm giúp cải thiện thu nhập cho cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác kiểm tra tạo động lực để phát huy tính sáng tạo, nhiệt huyết trong công tác; qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, tạo cơ hội để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra ngày càng tốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao trong giai đoạn hiện nay.

Đoàn Thị Thủy - Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy

Tin liên quan